Tiểu sử Lưu quý phi (Tống Huy Tông)

Minh Đạt Hoàng hậu Lưu thị có lai lịch rất bí ẩn, chỉ biết cha bà tên Lưu Ngạn Thanh (劉彦清), không rõ quê quán ở đâu.

Năm Nguyên Phù thứ 3 (1100), do có nhan sắc mà bà được tuyển chọn vào cung hầu hạ, làm vị Ngự thị (御侍), sau được Tống Huy Tông sủng hạnh. Năm Sùng Ninh nguyên niên (1102), tháng 12, tiến Thọ An Quận quân (壽安郡君). Năm thứ 2 (1103), tháng 3, tiến Tài nhân. Năm thứ 3 (1104), tháng 7, lại thăng làm Mỹ nhân. Năm thứ 4 (1105), tháng 4, thụ tiến phong Tiệp dư. Năm Đại Quan nguyên niên (1107), tháng 2, thụ tấn Uyển dung (婉容), sang tháng 9 lại thăng Uyển nghi (婉儀), là hàng Tòng nhất phẩm. Năm thứ 2 (1108), tháng giêng, thụ Đức phi (德妃), tháng 2 liền cải làm Thục phi (淑妃).

Năm Đại Quang thứ 3 (1109), tháng 4, Lưu Thục phi chính thức được thụ tấn Quý phi, khi ấy địa vị chỉ dưới Trịnh Hoàng hậu[2]. Bà hạ sinh 3 Hoàng tử và 3 Hoàng nữ.

Năm Chính Hòa thứ 3 (1113), mùa thu, ngày 22 tháng 7 (âm lịch), Lưu Quý phi tạ thế, khi 27 tuổi.

Trước đó, Lưu Quý phi từng trồng một cây chuối trong vườn viện, nói:"Thật tiếc, ta có thể không kịp trông thấy thứ này lớn lên", quả nhiên thành thật. Khi bà bệnh trở, người hầu cấp tốc đến báo cho Huy Tông biết, nhưng khi ấy ông đang bận vui chuyện khác, không vội vàng lắm. Đến khi Lưu phi đột nhiên hoăng, Huy Tông mới hối hận mà đau xót, bi thống lắm. Được nội đình kiến nghị, Huy Tông bèn đặc biệt ban cho 4 chữ thụy hiệuMinh Đạt Ý Văn (明達懿文). Sang tháng 9, lấy Ôn Thành Hoàng hậu của Tống Nhân Tông làm tiền lệ, Huy Tông truy tặng Lưu Quý phi tước vị Hoàng hậu, thụy hiệu lấy hai chữ ["Minh Đạt"] đã cho, nên gọi là Minh Đạt Hoàng hậu (明達皇后)[3].